Chế độ chính trị quân phiệt Thời đại quân phiệt

Viên Thế Khải cắt giảm nhiều tổ chức chính quyền vào đầu năm 1914, bằng cách đình chỉ quốc hội, sau đó là các hội đồng cấp tỉnh. Nội các dưới quyền Viên Thế Khải sớm từ chức, khiến ông trở thành nhà độc tài của Trung Quốc.[11] Sau khi Viên Thế Khải tước đi nhiều quyền tự do cơ bản, đất nước nhanh chóng rơi vào vòng xoáy hỗn loạn và bước vào thời kỳ chủ nghĩa quân phiệt. "Chủ nghĩa quân phiệt không thay thế lực lượng quân sự cho các thành phần chính quyền khác; nó chỉ đơn thuần là cân bằng chúng theo cách khác. Sự thay đổi cán cân này một phần đến từ sự phân rã của các biện pháp trừng phạt và các giá trị thuộc về chính quyền dân sự Trung Quốc truyền thống."[12] Nói cách khác, trong Thời đại quân phiệt, đã có một sự chuyển dịch đặc trưng từ một bộ máy quan liêu do nhà nước chi phối, nằm trong tay chính quyền trung ương sang nền văn hóa quân sự chi phối nằm trong tay nhiều nhóm, với quyền lực chuyển từ quân phiệt này sang quân phiệt khác. Một đề tài đáng chú ý về chủ nghĩa quân phiệt đã được C. Martin Wilbur xác định. "Ông chỉ ra rằng phần lớn những người theo chủ nghĩa quân quốc khu vực ở trạng thái 'tĩnh', tức là mục đích chính của họ chỉ xoay quanh việc đảm bảo và duy trì quyền kiểm soát một vùng lãnh thổ cụ thể mà thôi."[13]

Quân phiệt, theo cách nói của nhà khoa học chính trị người Mỹ Lucian Pye, là những người "do bản năng nghi ngờ mà nhanh chóng nghi ngại rằng lợi ích của họ có thể bị đe dọa, vô cùng cứng đầu, cống hiến cho những mục tiêu ngắn hạn, và không thể thấm nhuần sự trừu tượng duy tâm."[14] Các quân phiệt Trung Quốc thường xuất thân từ nền tảng quân sự nghiêm ngặt, đối xử tàn bạo với cả binh lính dưới quyền lẫn thường dân. Năm 1921, tờ North China Daily News đưa tin rằng ở tỉnh Thiểm Tây, cướp bóc và bạo lực phổ biến, trở thành một vấn nạn nghiêm trọng, khiến nông dân vô cùng kinh hãi. Ngô Bội Phu của Trực hệ được biết đến là người đàn áp các cuộc đình công của công nhân đường sắt dưới hình thức khủng bố bằng hành quyết. Một nhà ngoại giao người Anh ở tỉnh Tứ Xuyên đã chứng kiến hai kẻ nổi loạn bị chém công khai tới chết, với trái tim và lá gan bị treo lên; hai người khác thì bị thiêu chết công khai; có những kẻ còn bị cắm nến đang cháy vào những vết thương hở trên khắp cơ thể, trước khi bị chặt thành từng mảnh.[15]

Trương Tác Lâm (trái) và Ngô Bội Phu (phải), hai trong số những nhà lãnh đạo mạnh mẻ quyền lực nhất Thời đại quân phiệt

Tuy các quân phiệt đặt nặng vấn đề lòng trung thành cá nhân, các sĩ quan cấp dưới vẫn thường phản bội chỉ huy để đổi lấy khoản hối lộ gọi là "đạn bạc", và chính các quân phiệt cũng thường phản bội đồng minh. Sự thăng tiến hầu như không liên quan đến năng lực, thay vào đó, các quân phiệt cố gắng tạo ra một mạng lưới liên khóa giữa quan hệ gia đình, thể chế, khu vực, quan hệ thầy trò cùng với tư cách thành viên trong hội anh em kết nghĩa hay hội kín. Cấp dưới phản bội chỉ huy có thể phải gánh chịu cực hình. Tháng 11 năm 1925, Quách Tùng Linh, tướng lĩnh hàng đầu trung thành với Nguyên soái Trương Tác Lâm – "Đại soái" Mãn Châu – làm một giao kèo với Phùng Ngọc Tường để nổi loạn, và gần như đã lật đổ được "Đại soái", khiến ông này phải hứa tăng lương cho binh lính nổi loạn; cùng với dấu hiệu cho thấy người Nhật vẫn ủng hộ Trương Tác Lâm, binh lính nổi loạn rốt cuộc lại quay trở lại trung thành với chỉ huy. Quách Tùng Linh và vợ đều bị bắn chết công khai, thi thể của họ thì bị bêu ba ngày tại một khu chợ ở Thẩm Dương. Sau khi Phùng Ngọc Tường phản bội đồng minh Ngô Bội Phu để chiếm lấy Bắc Kinh cho riêng mình, Ngô Bội Phu đã phàn nàn rằng "quốc gia này chẳng có chế độ gì cả; tình trạng vô chính phủ và hành vi làm phản phổ biến khắp mọi nơi. Phản bội lãnh đạo là chuyện thường như cơm bữa ..."[16]

"Nền chính trị liên kết" ngăn cản bất kỳ một quân phiệt nào thống trị chế độ. Khi một quân phiệt bắt đầu trở nên quá mạnh, những người còn lại sẽ liên minh để ngăn chặn ông ta, sau đó quay ra tấn công lẫn nhau. Mức độ bạo lực trong những năm đầu được kiềm chế, vì không nhà lãnh đạo nào muốn tham gia vào một cuộc giao tranh quá nghiêm trọng. Chiến tranh sẽ đem đến nguy cơ thiệt hại cho chính lực lượng của họ. Ví dụ, khi Ngô Bội Phu đánh bại đội quân của Trương Tác Lâm, ông cung cấp hai chuyến tàu hỏa đưa những kẻ chiến bại về nhà, biết rằng trong tương lai, nếu có bị Trương Tác Lâm đánh bại thì ông cũng có thể trông cậy vào một phép lịch sự tương tự. Hơn nữa, không một quân phiệt nào có đủ tiềm lực kinh tế hoặc sức mạnh hậu cần để tung một đòn nốc ao quyết định; điều họ có thể hi vọng nhiều nhất là giành được một số vùng lãnh thổ. Không ai có thể chinh phục toàn bộ đất nước và áp đặt một chính quyền trung ương. Tuy nhiên, tới những năm 1920, tình trạng bạo lực ngày càng trở nên khốc liệt và tàn bạo, khi mục tiêu của các quân phiệt là gây sát thương cho kẻ thù và cải thiện quyền mặc cả trong "nền chính trị liên kết".[17]

Kiểm soát đường sắt là nhiệm vụ vô cùng quan trọng của các quân phiệt.

Do cơ sở hạ tầng ở Trung Quốc rất nghèo nàn, việc kiểm soát các tuyến đường sắt và đầu máy xe lửa là vô cùng quan trọng để duy trì phạm vi ảnh hưởng. Đường sắt là con đường quân vận nhanh nhất và rẻ nhất, hầu hết các trận chiến trong Thời đại quân phiệt đều diễn ra trên khoảng cách đường sắt ngắn. Năm 1925, người ta ước tính khoảng 70% đầu máy chạy trên các tuyến đường sắt nối Vũ Hán với Bắc Kinh và 50% đầu máy chạy trên các tuyến đường sắt nối Bắc Kinh với Thẩm Dương, được sử dụng để chuyên chở quân đội cùng tiếp tế.

Tàu hỏa bọc thép mang đầy súng máy và đại pháo, yểm trợ hỏa lực cho quân đội vào trận. Những cuộc giao tranh liên tục diễn ra xung quanh các tuyến đường sắt, gây nhiều thiệt hại về kinh tế. Năm 1925, ít nhất 50% đầu máy được sử dụng trên tuyến đường sắt nối Nam Kinh với Thượng Hải đã bị phá hủy, với việc binh lính của một quân phiệt dùng tới 300 toa chở hàng làm chỗ ngủ, tất cả đều đỗ trực tiếp một cách bất tiện trên đường ray. Để cản trở truy kích, các đội quân bại trận phá nát nhiều tuyến đường sắt khi tháo chạy, gây thiệt hại tới 100 triệu bạc đô la Mexico riêng trong năm 1924 (thời điểm đó, đồng đô la Mexico là đơn vị tiền tệ chính được sử dụng ở Trung Quốc). Từ năm 1925 đến năm 1927, giao tranh ở miền đông và miền nam Trung Quốc đã khiến lưu lượng đường sắt phi quân sự giảm 25%, khiến giá cả hàng hóa tăng vọt còn hàng tồn thì chất đầy kho.[18]